
Đồng tử Lê Ngưng
Ông Ðồng Ngưng là một đồng tử khi mới bắt đầu phôi thai nền Cao Ðài giáo từ 1921 tại Phú Quốc. Ấy thế, mà đối với các vị đạo trưởng cao niên, khi được hỏi đến thì chỉ biết mập mờ không rõ rệt chi cả, thậm chí có người nói ông không ăn chay, lại không biết chữ v.v…, theo dòng thời gian, vai trò của ông Đồng Ngưng đã ít nhiều phai nhạt theo năm tháng, để rồi người tín đồ Cao Đài ngày nay đã không biết đến, hay có chăng, cũng rất sơ sài, hời hợt.
Đồng Tân rất ngạc nhiên trước những luận cứ ấy và sau khi dò hỏi các đạo hữu Vô Vi, từ Ðàn Long Hoa đến Ðàn Chợ Lớn, cuối cùng cũng tìm gặp được bà Phạm Minh Trung (lúc bấy giờ đã 74 tuổi), là người bạn đã từng cùng sinh kế với ông đồng Ngưng buổi sinh tiền.
Ông sinh năm 1913 tại Nha Trang, miền Trung Việt Nam, thường gọi là Đồng Ngưng khi còn bé đã được dẫn đến đảo Phú Quốc. Cậu bé là người đồng tử đầu tiên của Cao Ðài giáo qua sự điều động của đức Ngô Minh Chiêu từ đầu thập niên 1920 cho mãi đến sau này. Không rõ về lai lịch về thân sinh của ông, chỉ được biết ông có bà mẹ tu Minh Sư, khá giàu có đã vào Sài Gòn cất một ngôi chùa Minh Sư tại vùng Bà Chiểu (Cầu Bông). Tánh nết hiền lành từ nhỏ, ông đã đến Phú Quốc khi tuổi còn thơ ấu có lẽ trong một chuyến du ngoạn bằng đường biển và ở lại đó cùng một số trẻ nít ngang lứa. Khi đức Ngô làm Chủ quận Phú Quốc và bắt đầu ngộ đạo vào cuối 1920 qua những lần cầu tiên tại Quan Âm Tự (Minh Ðường), thì ngài đã có ý tìm cho mình một đồng tử, và Ðồng Ngưng chính là nhân vật được chọn trong số trẻ nít lúc ấy mới 8 tuổi. Thế là cậu bé được tuyển chọn làm đồng tử cho ngài từ đó và ngài cũng đã cho đồng Ngưng theo học các lớp tiểu học tại đây…
Những buổi đàn cơ tại Phú Quốc từ cuối 1920 đều do đồng Ngưng thủ cơ và việc dạy đạo của Ðức Cao Ðài từng chi tiết như từ việc dạy ngài ăn chay, cho thấy Thiên Nhãn để thờ, chứng giám lời nguyền của ngài khi bắt đầu trường trai thọ đạo từ ngày Tết Tân Dậu (tháng 2 – 1921) cũng do đồng Ngưng chấp cơ. Ông có học và biết chữ quốc ngữ cùng một ít tiếng Pháp, ăn chay trường từ đó, nhưng phải cái bệnh ham vui đổ bác… Năm 1924, đức Ngô đổi về Sài Gòn, ông không theo được nên chỉ gặp lại ngài vào năm sau và được ngài thu nhận trong nhà, giao việc tiền bạc và lo việc bếp núc. Mỗi khi cần ngồi đồng thì cho ngủ một giấc để tỉnh tâm. Sau khi đức Ngô liễu đạo tại Cần Thơ, ông trở lên Sài Gòn náu nương nơi các hàng môn đệ của ngài, làm đủ việc để tự nuôi thân và mất tại nhà một bổn đạo tại Gia Ðịnh vì bệnh năm 1956. Buổi sinh tiền, có nhiều môn đệ đức Ngô muốn nhờ ngài ban tâm pháp Vô Vi cho ông khi còn ở Sài Gòn, thì đức Ngô đang ăn miếng bánh, vội bẻ phân nữa trao cho đồng Ngưng và bảo: “Con ăn cái bánh này rồi sau qua độ linh hồn cho, chứ con chưa tu được đâu!”
Ông Ngưng là người hay giễu cợt và rất hòa hoãn. Tại Sài Gòn, có lần hai ông Truyện và Lệ giận nhau, ông liền chạy đến nhà ông Truyện nói ông Lệ đã liễu rồi. Tức thì, ông Truyện lo mua đồ phúng điếu, cho xe chạy đến nhà ông Lệ, mới hay không có gì xảy ra và ông Lệ đang công phu. Ông Truyện ngạc nhiên thì ông Ngưng cười nói: “Ai bảo hai anh tu mà cứ giận nhau hoài làm chi!”. Thế là hai bên cùng cười giảng hòa.
Nåm 1948, khi ngôi Ðàn Trước Tiết Tàng Thơ, tại Thủ Thiêm đang hoạt động, tuy không còn như trước do nạn chiến tranh Pháp Việt, ông Ðồng Ngưng được mời về đó, ngồi đồng như trước. Lúc bấy giờ, bà Phạm Minh Trung đem cụ thân sinh là Phạm Thêm về dưỡng bịnh (ông này thọ pháp với ông Ðại Giác – Ðàn Chợ Lớn, sau liễu đạo đắc quả là Chánh Giác Chơn Nhơn). Bà Trung gặp ông Ngưng tại đó vào năm 1948, hai người kết bạn với nhau và cùng lo chăm sóc ông cụ. Họ chỉ trợ duyên cho nhau vì bà Trung đã theo pháp tu Vô Vi với bà Trần thị Ngữ trước đó tại Ðàn Chợ Lớn. Hai người cùng chăm việc buôn bán, ông lo việc nhà còn bà đi bán độ nhật,… Có lần bà Trung rủ ông Ngưng tu thì ông nhắc lại việc đức Ngô nói ông không tu được và bảo bà đừng nhắc nữa.
Kể ra thì sự nghiệp đồng tử của ông Ngưng được thực thi hầu hết nơi các Ðàn Vô Vi, như ở Trước Tiết Tàng Thơ, Tổ đình Cần Thơ thường có sự hiện diện của ông. Cho đến ngày đức Ngô liễu đạo 13 tháng 3 Nhâm Thân thì bài cơ cuối cùng cũng do ông Ngưng ngồi đồng.
Những ngày cuối cùng, sau khi Trước Tiết Tàng Thơ bị cháy vì Pháp đốt năm 1945, ông về ngụ tại nhà các ông Hai Thông và Ba Minh ở Ðakao, lo việc mua đồ cũ, phụ lái xe đi Ðà Lạt với ông Ðốc Lệ. Lần chót đi Ðà Lạt về, ông ngã bịnh, bảo bà Trung đi mua nãi chuối, ông ăn gần hết. Ông lại bảo bà Trung đến Lăng Ông xin xăm, nếu bổn mạng còn thì đi nữa, còn không thì sẽ về Phú Hữu (quê bà Trung). Nhưng nói vậy mà không thực hiện được, đến 6 giờ sáng hôm sau thì ông mất tại nhà ông Thông năm 1956. Bà Trung đã xây ngôi tháp cho ông tại nghîa trang cüa Thánh Thất Bình Hòa (Gia Ðịnh).
Hiện ngôi mộ của ông ở làng Bình Hòa đã được cải táng về Nha Trang vì nghĩa trang bị giải tỏa sau 1975 do các cháu của ông ở Nha Trang đã đến nơi đây đem di cốt ông về xứ.
Nghĩ lại cơ đồ nhà đạo được đến như ngày nay, vậy mà lớp hậu bối mấy kẻ đã biết được cuộc đời hẩm hiu và cô đơn của ông Đồng Ngưng, khi đạo nghiệp của ông không kém những tướng soái tiên phuông khai sơn phá thạch của nhà đạo cũng bao trùm trong lạnh lùng và thờ ơ, để rồi hôm nay, nhiều kẻ hữu danh cũng chưa chắc có được một đạo nghiệp như thế?!!!
